- Vùng Đồng bằng Bắc Bộ
Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ được có 2 tầng chứa nước chính kể từ trên mặt xuống gồm: Tầng chứa nước thứ nhất và tầng chứa nước thứ hai.
1. Tầng chứa nước thứ nhất: là lớp chứa nước thứ nhất kể từ mặt đất đến độ sâu trung bình 14,1m, phân bố trên diện rộng chủ yếu từ trung tâm đồng bằng ra phía biển, khu vực từ Việt Trì tới Hà Nội chỉ tồn tại các dải hẹp nằm dọc theo hệ thống sông Hồng, một số khoảnh nằm ở thung lũng giữa núi và ven các sông nhỏ khác. Đây là tầng chứa nước tuy trữ lượng không lớn nhưng có ý nghĩa cung cấp, bảo vệ chất lượng cho các tầng chứa nước khác nằm phía dưới.
Do thời gian này đang trong thời kỳ mùa khô nên trong tháng 2 năm 2017 mực nước có xu thế hạ thấp trên toàn đồng bằng. Vùng ven rìa nơi giáp gianh giữa vùng trung du và đồng bằng, ít chịu tác động của hệ thống nước mặt có 17/41 công trình mực nước hạ thấp và 12/41 công trình mực nước biến động không đáng kể. Vùng dọc các sông lớn và trung tâm đến ven biển đã có tới 12/41công trình quan trắc mực nước dâng cao so với tháng 1.
Số liệu thống kê cho thấy giá trị mực nước trung bình tháng đã hạ thấp 0,06m so với tháng 1, hạ thấp 0,31m so với 1 năm trước, hạ thấp 0,18m so với 5 năm trước và hạ thấp 0,30m so với 10 năm trước.
Dự báo mực nước trong tháng 3 và tháng 4 có xu thế hạ thấp trên toàn đồng bằng. Tuy nhiên khu vực các tỉnh, thành phố ven biển như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định mực nước có xu thế biến động không đáng kể hoặc dâng chút ít.
2. Tầng chứa nước thứ hai: Là tầng chứa nước phân bố rộng khắp đồng bằng Bắc Bộ với chiều sâu rất không đồng đều và có hướng nghiêng dần ra phía biển, trung bình từ 30,9m đến 58,0m. Đây là tầng chứa nước có trữ lượng rất lớn chất lượng tốt, hiện là nguồn cung cấp cho các nhà máy khai thác nước tại các đô thị, khu công nghiệp và phần lớn cư dân trên đồng bằng Bắc Bộ.
Thời gian này tầng chứa nước được bổ cập từ nước đổ ải ngấm xuống, nên mực nước có xu thế dâng cao trên toàn đồng bằng. Tầng chứa nước có 37/64 công trình quan trắc có mực nước dâng cao và 13/64 công trình mực nước biến động không đáng kể. Mực nước hạ thấp có 14/64 công trình. Tuy nhiên mực nước đang bị hạ thấp ở khu vực thành phố Hà Nội, TP Vĩnh Yên, TP Nam định nơi có các nhà máy khai thác nước tập trung quy mô lớn. Mực nước biến động ít hoặc dâng cao tại các vùng ven rìa đồng bằng và từ trung tâm ra phía biển.
Số liệu thống kê cho thấy giá trị mực nước trung bình tháng trên toàn đồng bằng dâng cao 0,12m so với tháng 1, hạ thấp 0,61m so với 1 năm trước, hạ thấp 1,11m so với 5 năm trước và hạ thấp 1,49m so với 10 năm trước.
Dự báo mực nước trong tháng 3 và tháng 4 có xu thế hạ thấp trên toàn đồng bằng. Tuy nhiên tại các tỉnh, thành phố ven biển Thái Bình, Nam Định và Hải Dương có xu thế dâng cao chút ít hoặc biến động không đáng kể.
Các cơ quan quản lý tài nguyên nước và các hộ khai thác nước dưới đất cần chú ý đến lượng khai thác và chế độ khai thác hợp lý tại phường Đồng Tâm TP Vĩnh Yên, phường Mai Dịch quận Cầu Giấy và phường Phũ Lãm quận Hà Đông TP Hà Nội vì mực nước dưới đất tại đây đã chạm ngưỡng cảnh báo cấp 1 là 50-75 % giá trị giới hạn cho phép.